Xu hướng lao động hiện thời Thất nghiệp tại Hoa Kỳ

Đồ thị minh hoạ diễn biến tỷ lệ thất nghiệp từ 2000-2007, theo cách tính U3 và U6.Phân tích tỷ lệ lao động có việc làm trong độ tuổi 25-54 đã loại trừ tác động của biến số tuổi. Cả 2 tỷ số đều có chung mẫu số là tổng dân số dân sự. Đường trên có tử số là tổng lao động (có việc làm và thất nghiệp), trong khi đường dưới có tử số chỉ gồm lao động có việc làm.Thống kê tỷ lệ các nhóm lý do lao động dân sự từ 16 tuổi trở lên không tham gia lực lượng lao động, 2004 và 2014

Có nhiều cách thức khác nhau sử dụng để theo dõi thị trường lao động Hoa Kỳ. Mỗi phương thức cung cấp cái nhìn thấu đào về các nhân tố ảnh hưởng tới việc làm. Cục thống kê lao động cung cấp một biểu đồ thể hiện các biến liên quan đến việc làm trong nền kinh tế.[16][17] Các thành viên Cục trự trữ liên bang cũng thường có các phát biểu và điều trần trước Quốc hội về quan điểm của họ về nền kinh tế, bao gồm thị trường lao động.[18]

Tháng 9 năm 2017, số lượng việc làm so với mức tháng 11 năm 2007 (trước suy thoái) đã được hồi phục. Các biến số như tỷ lệ thất nghiệp (U-3 và U-6) và số lượng lao động có việc làm đã được cải thiện như mức trước suy thoái. Tuy nhiên, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động (thậm chí trong độ tuổi lao động tốt nhất), và tỷ trọng thất nghiệp dài hạn diễn biến xấu hơn so với trước khủng hoảng. Thêm nữa, tỷ trọng việc làm bán thời gian đã tăng nhiều hơn so với trước suy thoái. Ví dụ:

Tỷ lệ thất nghiệp

  • Tỷ lệ thất nghiệp (U-3), đo bằng số lượng người thất nghiệp chia cho tổng lực lượng lao động dân sự, đã tăng từ 5% trong tháng 12 năm 2007 lên đỉnh điểm 10% tháng 10 năm 2009, trước khi hạ xuống mức 4,2% tháng 9 năm 2017.[19] Con số này loại trừ số lượng người không nằm trong lực lượng lao động, nên có thể sai lệch nếu một lượng lớn người trong độ tuổi lao động trở nên bi quan và dừng tìm việc.
  • Tỷ lệ thất nghiệp (U-6)[20] là số đo rộng hơn của thất nghiệp, tính những công nhân bán thời gian là thất nghiệp. Tỷ lệ U-6 đã tăng từ 8,8% tháng 12 năm 2007 lên đỉnh điểm 17,1% tháng 11 năm 2009, trước khi giảm đều xuống mức 8,3% tháng 9 năm 2017.[21]
  • Tỷ lệ lao động thất nghiệp không có việc làm trong 27 tuần hoặc hơn (như thất nghiệp dài hạn) chiếm bình quân 19% trước khủng hoảng, đã tăng lên 48,1% tháng 4 năm 2010 và giảm xuống 25,5% tháng 9 năm 2017.[22] Một vài nghiên cứu chỉ ra lao động thất nghiệp dài hạn có thể gặp nhiều khó khăn hơn vì những kỹ năng, kiến thức không được cập nhật và đối mặt với khó khăn trong việc cạnh tranh trên thị trường.[23]

Số lượng lao động và tạo việc làm

  • Lao động dân sự (Civilian employment) đã và đang mở rộng đều đặn trong suốt những năm 1990, nhưng ko đều những năm 2000 do quá trình suy thoái năm 2001 và 2008-2009. Từ 2010 trở lại, con số này tiếp tục tăng nhanh đến 2017. Ví dụ, số lượng lao động dân sự đã không phục hồi được trạng thái cao nhất 137,8 triệu người vào tháng 1 măm 2001 cho đến tháng 6 năm 2003. Sau đó, nó đạt đỉnh vào tháng 11 năm 2007 với 146,6 triệu người, sau đó giảm 8,6 triệu do khủng hoảng kinh tế toàn cầu, trở về mức 138 triệu người. Số lượng lao động Hoa Kỳ đã bắt đầu tăng từ sau đó và trở lại mức đỉnh trước khủng hoàng vào tháng 9 năm 2014. Đến tháng 12 năm 2016, tổng lao động dân sự là 152,1 triệu người, cao hơn mức đỉnh trước khủng hoảng 5,5 triệu người. Đến tháng 10 năm 2017, tổng lao động có việc làm là 153,9 triệu người.[24]
  • Từ tháng 10 năm 2010 đến tháng 11 năm 2015, Hoa Kỳ đã tăng tổng cộng 12,4 triệu việc làm, với tăng trưởng hàng tháng trung bình đạt 203.000 việc làm, đây là mức tăng rất nhanh trong lịch sử.[24][25] Phân tích xu hướng của lực lượng lao động 2015 cho thấy, lý do chủ yếu người lao động không muốn kiếm việc làm, hơn là bi quan hay lý do khác, đã làm chậm lại tốc độ tăng của lực lượng lao động.[26]
  • Số lượng việc làm được tạo ra năm 2014 là cao nhất kể từ năm 1999. Đến tháng 10, nền kinh tế Hoa Kỳ đã tạo ra 2,225 triệu việc làm trong khu vực tư nhân, trên tổng cộng 2,285 triệu việc làm của toàn quốc.[27]
  • Tổng số lao động làm việc trong chính phủ (liên bang, bang và địa phương) là 22 triệu người vào tháng 11 năm 2015, tương tự mức tháng 8 năm 2006. Điều này đối lập với sự tăng trưởng đều đặn trong lao động chính phủ giai đoạn 1980-2008.[28] Số lao động tại chính quyền liên bang là 2,7 triệu người vào tháng 11 năm 2015, bằng với mức trước suy thoái năm 2007. Sau đó số lượng lao động tăng thêm 200.000 sau khủng hoảng, sau đó lại giảm trở lại.[29]

Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động

  • Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động được định nghĩa bằng số người trong lực lượng lao động (có việc làm và thất nghiệp) chia cho tổng số dân dân sự (từ 16 tuổi trở lên). Tỷ lệ này giảm đều từ 67,3% tháng 3 năm 2000 xuống 62,5% tháng 5 năm 2016.[30] Việc giảm này mang đặc điểm tự nhiên trong dài hạn vì dân số đang già đi và thời kỳ bùng nổ dân số (Baby Boom) đã kết thúc. (Dân số vẫn tăng nhưng lực lượng lao động không tăng). Các nhân tố khác bao gồm một tỷ lệ tăng lên của số người trong độ tuổi lao động nhưng bị bệnh, tàn tật hoặc đi học.[31]
  • Một cách đo khác của tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là tỷ lệ dân số có việc làm trên tổng số dân dân sự (EM), đã giảm từ mức đỉnh sau suy thoái năm 2007 từ mức 63% xuống còn 58% tháng 11 năm 2010, và hồi phục một phần thành 60% tháng 5 năm 2016.[32] Cách đo này cũng bị ảnh hưởng của nhân khẩu học.
  • Các nhà phân tích có thể loại bỏ bớt sự tác động của nhân khẩu học bằng cách đưa ra tỷ lệ người 'trong tuổi lao động' từ 25-54. Với nhóm này, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động giảm từ 83,3% tháng 11 năm 2007 còn 80,5% tháng 7 năm 2015, trước khi phục hồi lại mức 81,8% tháng 10 năm 2017. Tỷ lệ EM với nhóm này cũng giảm từ 79,7% tháng 11 năm 2007 còn 74,8% tháng 12 năm 2009, trước khi phục hồi mức 78,8% tháng 10 năm 2017. Trong cả hai trường hợp, các con số đều chưa đạt tới mức đỉnh trước khủng hoảng, đây là một chỉ dấu cho thấy sự trùng xuống của thị trường lao động với một số lượng người trong độ tuổi lao động không tham gia thị trường.[33][34]
  • Cơ quan ngân sách Quốc hội Mỹ ước tính có khoảng 2,5 triệu công nhân ở dưới mức toàn dụng (việc làm đầy đủ) đến cuối năm 2015 và 1,6 triệu người tương ứng vào 31/12/2016, chủ yếu do sự giảm tham gia lực lượng lao động.[35]
  • Tháng 12 năm 2015, Cơ quan thống kê lao động chỉ ra những lý do tại sao người dân độ tuổi từ 16 trở lên không tham gia lực lượng lao động, tính theo con số 87,4 triệu người năm 2014: 1) Nghỉ hưu-38,5 triệu hoặc 44%; 2) Ốm đau bệnh tật-16,3 triệu hoặc 19%; 3) Đi học-16 triệu hoặc 18%; 4) Nghĩa vụ gia đình-13,5 triệu hoặc 15%; và 4) Lý do khác-3,1 triệu hoặc 5%.[36] Đến tháng 11 năm 2016, Cục này ước tính có khoảng 90 trên 95 triệu người không tham gia lực lượng lao động do họ "Không muốn làm việc."[37]

Công việc toàn thời gian và bán thời gian

  • Số lượng lao động bán thời gian đã tăng trong giai đoạn 2008-2009 do kết quả của suy thoái kinh tế, trong khi số lượng lao động toàn thời gian sảm sút. Mô típ này diễn ra giống với những kỳ suy thoái trước. Từ tháng 11 năm 2007 đến tháng 1 năm 2010, số lượng lao động bán thời gian tăng thêm 3 triệu (từ 24,8 triệu lên 27,8 triệu), trong khi lao động toàn thời gian giảm đi 11,3 triệu (từ 121,9 triệu còn 110,6 triệu). Giữa năm 2010 và tháng 5 năm 2016, số lượng lao động bán thời gian dao động quanh mức 27-28 triệu người, trong khi lao động toàn thời gian phục hồi đều đặn lên mức 123,1 triệu người, cao hơn mức đỉnh trước khủng hoảng.[38] Nói cách khác, hầu như toàn bộ việc làm sau suy thoái là toàn thời gian.
  • Tỷ lệ công việc toàn thời gian là 83% năm 2007, nhưng giảm xuống 80% tháng 2 năm 2010, sau đó phục hồi lên mức 81,5% tháng 5 năm 2016.[39]
  • Số lượng lao động làm việc bán thời gian tháng 8 năm 2016 giữ trên mức trước khủng hoảng. Con số này tăng từ 4,6 triệu tháng 12 năm 2007 (trước khủng hoảng) lên mức đỉnh 9,7 triệu tháng 3 năm 2010, sau đó giảm xuống 6 triệu tháng 8 năm 2016. Tính theo phần trăm tổng lao động có việc làm trong khu vực tư nhân, con số này lần lượt là 3,3%, 7,1% và 4,0%.[40] Cục dự trữ Liên bang cho rằng đây là một chỉ dấu của sự sụt giảm thị trường lao động trong một phát biểu tháng 9 năm 2016.[41]
  • Theo thống kê giữa giai đoạn 2005 và 2015, số việc làm tăng ròng trong những thoả thuận công việc khác (ví dụ như trợ giúp tạm thời, gọi khi có nhu cầu, các nhà thầu độc lập hoặc người làm tự do freelancers). Một số những lao động này đủ tiêu chuẩn xếp vào toàn thời gian (làm việc trên 35 giờ/tuần) trong khi số khác làm bán thời gian. Nói cách khác, số lượng công việc trong những ngành truyền thống hầu như không thay đổi, trong khi công việc tại những thoả thuận thay thế tăng 9,4 triệu.[42]
  • Theo khảo sát số lượng lao động có 'công việc tốt' (định nghĩa là '30 giờ làm việc/tuần và được trả lương tương xứng'), tỷ lệ này vào khoảng 42% trong suốt năm 2010 và tăng gần 48% trong giai đoạn 2016-2017.[43]

Cách đo lường khác

Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) theo dõi các số đo khác nhau về thị trường lao động, từ đó tác động đến cách thức điều hành chính sách tiền tệ (monetary policy). Một bảng thông tin bao gồm 9 số đo, chỉ 3 trong số đó biểu hiện mức trước khủng hoảng 2007 vào tháng 6 năm 2014.[44][45] Fed cũng xuất bản các báo cáo thông tin về thị trường lao động bao gồm 19 chỉ tiêu thống kê về việc làm khác.[46][47]

Tốc độ hồi phục

Nghiên cứu chỉ ra rằng sự hồi phục sau khủng hoảng tài chính có thể được kéo dài tương ứng với những kỳ suy thoái đặc trưng, với thời kỳ dài của thất nghiệp cao và tăng trưởng kinh tế chậm.[48][49] So sánh khủng hoảng tài chính và suy thoái tại các quốc gia khác, sự phục hồi về việc làm tại Mỹ giai đoạn 2007-2009 là khá nhanh chóng.[50]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thất nghiệp tại Hoa Kỳ http://billmoyers.com/segment/paul-krugman-on-rece... http://www.bloombergview.com/articles/2014-08-01/y... http://www.calculatedriskblog.com/2014/06/employme... http://www.calculatedriskblog.com/2014/10/public-a... http://www.calculatedriskblog.com/2014/11/employme... http://www.cnn.com/2011/10/11/politics/jobs-bill/i... http://fivethirtyeight.com/features/the-job-market... http://news.gallup.com/poll/125639/gallup-good-job... http://www.gallup.com/poll/146915/americans-top-jo... http://www.jobs-council.com/2011/10/10/jobs-counci...